Cuộc đời sắc sắc không không
Người đời thành đạt hay không thành đạt, khi đến tuổi biết mình không còn sức bon chen được nữa, đành an phận hưởng chút phước lộc cuối đời nơi con cháu, nhân lúc trà dư tửu hậu, thường hay buông câu “Cuộc đời sắc sắc không không” với bạn bè thân hữu.
Bạn đang xem: Cuộc đời sắc sắc không không
Không biết có phải họ tiếc nuối cho cái quãng đời vàng son lộng lẫy không còn nữa, hay tự an ủi cho cái cuộc sống gian nan lận đận đã qua? Hay họ ngộ ra rằng, những cái được cái mất, những vinh quang tủi nhục, những sung sướng đau khổ…trên cõi đời này là có mà là không, không đáng để cho họ phải bận tâm trong cả cuộc sống này. Cái ngộ này mới nghe qua có vẻ mang hơi hướm Phật giáo nhưng chất chứa ít nhiều tiêu cực bên trong, nó chỉ an ủi được phần nào những kẻ chân đã chồn gối đã mỏi, để sống được thanh thản những ngày cuối đời. Với những người đang dấn thân vào cuộc sống vật lộn với phong ba để gây dựng sự nghiệp thì quan niệm này đôi khi lại là một gáo nước lạnh làm tắt ngúm ngọn lửa đấu tranh trong cuộc sống, người đời cho là như thế, còn người học Phật chúng ta thế nào? Cuộc đời có phải sắc sắc không không không? Sắc sắc không không có phải là ý từ của câu trong Bát Nhã Tâm Kinh: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thì không, không tức thì sắc” không? Sắc sắc không không là cái gì? Nó là vật thể hay khái niệm? Nó từ vật thể chuyển sang khái niệm hay từ khái niệm chuyển thành vật thể? Theo tôi những người thốt lên được câu này phải là những kẻ từng trải, ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo, nhưng ảnh hưởng đền mức độ nào? Sự vỡ vạc đến đâu? Điều này giúp cho người ta được gì? Đọc lên bốn từ “Sắc sắc Không không” tôi có cảm giác hình như những người đọc tụng hoặc thường nghe người khác đọc tụng 4 câu :Sắc bất dị không, Không bất dị sắcSắc tức thì không, Không tức thì sắc Rồi linh cảm rút gọn thành bốn từ đó. Vậy mà hình như bốn từ ấy đã nói lên hết cái “thật tánh” của vũ trụ vạn hữu. Tính chân thật của sự sự vật vật trong thế gian ra sao so với bốn từ “Sắc Sắc Không Không” này? Thật ra chứng thực tánh chân thật của vũ trụ vạn hữu chỉ có đức Phật, người sau khi đã chứng quả Vô Thường Chánh Đẳng Chánh Giác, còn chúng ta chỉ lờ mờ hiểu biết bằng lý luận bằng lời nói, mà nó là tánh lìa khỏi ngôn thuyết, yêu cầu thật chứng thông qua công phu tu hành vậy. Dù là hiểu lờ mờ, biết đại khái, hiểu biết theo kiểu “Cách la vọng nguyệt” đi nữa thì chúng ta cũng phải tìm hiểu thật sâu sắc thật chân xác bốn từ “Sắc sắc không không” của bốn câu Bát Nhã Tâm Kinh để nhận ra tánh chân thật của vũ trụ vạn hữu. Nói là bốn từ mà thật ra chỉ có hai từ Sắc và Không. Vậy Sắc là gì? Nói cho đủ là sắc pháp, chỉ chung cho tất cả những sự sự vật vật hiện hữu trong vũ trụ, nói gọn là vũ trụ vạn hữu. Đã nói sắc pháp thì phải nói đến tâm pháp, vì đó là hai thành tố ắt và đủ để Phật giáo gọi là pháp giới, một cách gọi vũ trụ vạn hữu trọn vẹn. Pháp còn phân ra pháp hữu vi pháp vô vi, pháp hữu lậu pháp vô lậu… Từ sắc ở đây chắc chắn phải là cái uẩn đầu tiên trong ngũ uẩn vậy. Những sự sự vật vật hữu hình vô hình hiện hữu trong vũ trụ đều gọi là sắc, tức là những cái có sự sanh khởi hiển hiện trong cõi đời này. Nói một cách khác sắc là những “cái có” trên cõi đời, tức là những sự sự vật vật trên đời là có thật. Không là gì? Là khái niệm về hiện tượng trống rỗng, một nghĩa theo ý tưởng thông thường, nhưng theo tư tưởng Phật học thì “Không” là lý tánh tuyệt đối của các pháp, lý tánh này không một không khác viên dung tịch mịch, là cái gọi là “Công viên quả mãn” của người tu Phật, tức là Bồ Đề, Niết bàn, Chân như…vậy. Không phải tự dưng người ta gọi chùa viện tòng lâm Phật giáo là chốn “Không môn” mà chính ở chữ Không này vậy.Xem thêm: Báo Giá Băng Keo Bảo Vệ Bề Mặt Giá Rẻ Tại Tphcm, Băng Dính Bảo Vệ Bề Mặt Hay Còn Gọi Là Màng Bảo
Rõ ràng chữ sắc chữ không trong Phật học không phải chữ sắc chữ không bình thường trong thế tục, có điều hai chữ này hiểu theo nghĩa thông tục thì tuy có ít nhiều gán ghép ý tiêu cực cho Phật giáo, nhưng phần nào cũng tạo được niềm an ủi cho những người “thiên ma bách chiết” và sự thanh thản cho những kẻ thành đạt, trong buổi “bóng xế chiều tà” của kiếp con người vậy. Nhưng tại sao lại nói theo kiểu trùng lắp “Sắc Sắc Không Không” ? Như trên tôi đã nói, có lẽ đây là một lối tinh giản bốn câu Bát Nhã Tâm Kinh, sự tinh giản này gợi cho chúng ta một số những suy luận sau đây:Cái hiển hiện trước mắt ta rỗng không không cóCái rỗng không không có hiển hiện trước mắt ta Như thế nghĩa là:Cái có mà không cóCái không có mà có Từ hai vế trên ta lại suy ra:Cái có chẳng phải có, chẳng phải không có Cái không chẳng phải không, chẳng phải không khôngTa thử làm phép cộng hai vế này lại: Cái có không chẳng phải có không chẳng phải không có không không, thì ra hai cái “Có” “Không” hình như có một cái gì đó “Có”. Cái có mà chúng ta nói ở đây chính là pháp (sắc pháp), là vũ trụ vạn hữu, những sự sự vật vật hiển hiện trong thế gian. Như vậy cái gì đó hình như “có ấy” chính là tánh không của vũ trụ vạn hữu, lý tánh tuyệt đối của các pháp, không một không khác chân thật viên mãn, chính là “sắc bất dị không không bất dị sắc, sắc tức thị không không tức thị sắc” mà Phật điển đã tóm gọn thành bốn từ “Chân không diệu hữu” vậy. Thế tại sao tánh chân thật của các pháp là “Không”? Sự sự vật vật trên cõi đời này đều do nhân duyên sanh, mang tánh chất “y tha khởi”, chúng dựa các nhân các duyên khác mà sanh khởi biến hiện, không có tự tánh, chúng chỉ là giả tướng không thật. Khi Chúng hiện khởi ở thế gian, tâm thức loài hữu tình (trong đó có con người) nhận biết lệch lạc gán ghép cho nó cái tên. Tôi nói nhận biết lệch lạc là nói sự nhận biết của con người không đúng sự thật. Khi nhìn sự vật hiển hiện trên đời giống như người đi đêm nhìn đoạn dây thừng mà thấy con rắn lớn, hồn vía lên mây. Như vậy cái tên mà chúng ta gọi sự sự vật vật trên đời cũng chỉ là giả danh (tên giả). Sự vật trên thế gian không có thật thể, chỉ là giả tướng, giả danh mà thôi. Đây là một thuộc tánh của vũ trụ vạn hữu mà Duy thức học gọi là Biến Kế sở chấp tánh. Như vậy quả thật lý tánh tuyệt đối của sự vật hiện hữu trên thế gian là “Không”, tĩnh lặng rỗng không, không một không khác, không tăng không giảm không cấu không tịnh, như như bất động. Điều này chúng ta ngộ ra thông qua ngôn từ văn tự trong kinh luận Phật giáo, cộng thêm với cả tấm lòng tin Phật kiên cố, tin tưởng đấng Vô thượng chánh đẳng chánh giác đã dùng phương tiện nói ra điều thật chứng của mình, điều mà chỉ Phật với Phật mới biết được. Sự ngộ ra của chúng ta đôi khi trở thành ngộ nhận, đi chệch khỏi ý hướng của đấng Đại Giác mà rơi vào ma đạo, chìm sâu xuống biển vô minh, lặn lội luân chuyển mãi trong ba cõi sáu đường, không hẹn ngày ra khỏi! Khốn khổ thương thay!. Muốn giác ngộ chữ “Không” này như “Phật với Phật” thì chúng ta phải nỗ lực tu tập hành trì noi theo đạo hạnh của chư Phật Bồ Tát, phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, kiên trì tu hành Bồ Tát đạo, tinh tấn không thối chuyển, một kiếp chưa thành, hai kiếp chưa chứng, tôi tin rằng rồi đến một kiếp nào đó cũng sẽ “công viên quả mãn”, “không môn” tĩnh lặng mênh mông, niết bàn chân như sáng rỡ ngời ngời, vũ trụ vạn hữu cùng ta hòa thành, không một không khác, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng cấu chẳng tịnh như như bằng hữu vậy.